Những ngày tháng tư năm 1975,
dẫu đã gần 40 năm trôi qua nhưng khi hồi tưởng,
trong tôi,
vẫn còn những cảm xúc khó quên.
Ngày 25-4-1975, tôi về Mỹ tho chơi cuối tuần, như thói quen vốn có. Lần này, bỗng dưng chồng chuyển chỗ ở đến trường Phục Hưng (thay vì ở nhà trọ gần chợ Vòng Nhỏ như trước đây). Tầng trên của ngôi trường tư này là nơi cư ngụ của thầy Hữu, tôi không được phép biết mối quan hệ của thầy với chồng tôi. Nhưng thầy cô tiếp chúng tôi như những người khách rất thân tình. Tôi đang mang thai đến tháng thứ năm nhưng vẫn gọn gàng vì trước kia, tôi vốn ốm yếu.Mặc dù vậy, tôi vẫn được hưởng mọi ưu tiên như một bà bầu! Các con của thầy, gồm 4 người, trong đó, có một cặp song sinh (1 trai, 1 gái), Bảo Thư là cô gái út, rất dễ thương, luôn nũng nịu bên tôi để thỉnh thoảng được đưa tay lên bụng tôi, "thăm" em bé. Tôi nhớ mãi hình ảnh Thư, dẫn vợ chồng tôi đến quyết định: nhiều năm sau đó, đặt con gái của chúng tôi tên là "Thư". Tôi chỉ có việc ăn, ngủ và chơi, trong khi thầy, chồng tôi và chú Ba Ân cứ bàn tán chuyện gì chừng như bí mật nhưng cũng sôi nổi lắm. Vài ngày sau, khi cô bắt đầu may cờ thì tôi hay tin Đài phát thanh bị phong tỏa. Nhà tôi ở gần Đài phát thanh nên tôi có thể hình dung được dễ dàng cuộc chiến đang diễn ra tại đây mà tôi đã từng chứng kiến năm Mậu Thân. Không thể trở lại Saigon vào lúc này, cô "tiểu thư" nhớ nội, nhớ ba, nhớ nhà, nhớ bè bạn..., thắc mắc không biết mọi người đang làm gì mà mình thì lại an nhàn nơi đây?
Rồi ngày 30-4 lịch sử cũng đến, "nội các" ở trường Phục Hưng tự động giải tán, vợ chồng tôi trở về căn nhà trọ quen thuộc. Dõi mắt hướng về Saigon, thấp thỏm, nước mắt ngắn dài. Bà chủ nhà im thin thít, dò xét, khi thấy chồng và em trai ra khỏi nhà với súng và băng đỏ trên tay áo. Bà cũng chẳng chuyện trò líu lo với tôi như trước đây. Nhà không có thức ăn vì mấy ngày trước, tôi ở nhà thầy cô. Trước khi đi, chồng dặn: "Em ra quán mua 2 cái hột vịt, ăn đỡ, anh đi, chút về!".. Tôi biết mình không nên hỏi gì thêm, thôi thì, tôi và đứa con bé bỏng trong bụng, ở nhà vậy!
Khi thật sự chỉ có một mình, tôi suy nghĩ lan man, hết chuyện nọ đến chuyện kia...rồi chiến tranh cũng kết thúc, như một giấc mơ, như lời hát: "người đợi người trong ngày hội trùng tu..." mà chúng tôi vẫn cùng nhau hát trong những buổi sinh hoạt. Nhưng khi giờ phút mong chờ ấy đến thì cũng có biết bao kẻ khóc, người cười. Lính bại trận nháo nhác, người qua lại trong con hẽm nhỏ tấp nập. Tôi không rõ họ đi đâu, nhưng cứ kéo nhau đi, hình như họ đi về quê để trốn chạy một điều gì đó. Bà chủ nhà càng lúc càng dè dặt với tôi hơn, tôi nghe bà thì thầm với hàng xóm: "Việt cộng ở ngay trong nhà tui mà tui đâu có biết!". Không gọi điện thoại để liên lạc với gia đình ở Saigon được, tôi không biết làm gì để giết thời gian nên may áo, may tã cho con. Hạnh phúc đang ở bên tôi, tôi chẳng còn phải băn khoăn vì cái giấy hoãn dịch sắp hết hạn của chồng. Mẹ con tôi rồi đây không phải vò võ ngóng trông trong lo âu, sợ hãi. Buổi trưa, em chồng về, cũng vội vã như lúc ra đi: "Chiều, chị ba đừng chờ cơm em, chị ba đóng cửa rồi ngủ đi cho khỏe, em với anh ba không có sao đâu!". Sao hôm nay, thằng em bé bỏng, là học sinh lớp 10 của mình, oai phong vậy? Bỗng thấy nó lớn hẳn, chững chạc hẳn. Ở chung một nhà, nhưng mãi đến hôm nay, tôi mới biết em là ai...
Đúng một tuần sau, tôi được trở lại Saigon thì thành phố đã thật sự thay đổi. Tôi nhận công việc tiếp quản trường Nguyễn Bỉnh Khiêm (quận 1). bạn bè mỗi người một việc, chúng ta chưa có thời gian gặp lại nhau để mừng vui cho thỏa. Chỉ nghe nói rằng: bạn này thì..., bạn kia thì...Rất vui vì trong nhóm thân hữu nhỏ của chúng tôi vẫn trở về đông đủ, một vài người đang từ miền Bắc đang vào. Tôi rất muốn và đã hỏi thăm một người. Nhưng vì tôi không hỏi bằng bí danh (tôi làm sao biết!) mà hỏi tên "cúng cơm" nên được trả lời "không biết!". Có điều, tôi tin chắc là anh không chết, sớm hay muộn, tôi cũng sẽ được gặp lại anh.
Và...một ngày tháng năm nắng đẹp, có một anh mặc áo quần bộ đội đến tìm tôi tại trụ sở Hội Nhà giáo yêu nước (đường Mạc Đỉnh Chi). Chú bảo vệ báo tin, tôi nói ngay, không do dự: "Chú hỏi kỹ xem người ta tìm ai, con không có quen với ai là bộ đội hết!". Vào, ra hai, ba lượt, chú bảo vệ vẫn khẳng định người khách ấy tìm tôi. Tôi ra cổng, dáo dác nhìn và dừng lại ở nụ cười thân quen, ánh mắt nhìn tha thiết sau cặp kính cận. Bàng hoàng, xúc động đến tưởng chừng hàng cây trước mắt tôi đang chao đảo. Cuộc chiến khốc liệt đã lùi lại, tôi còn may mắn được gặp lại bao đồng đội thân thương và nhất là hôm nay, được gặp lại anh.
Tôi của ngày tháng 4 năm ấy và tôi của những năm 1970, 1972 không còn giống nhau nhưng cái dáng vẻ, giọng nói, nụ cười, ánh mắt mà tôi đang đối diện, một thời, đã cùng tôi đi vào giấc ngủ êm đềm, thì dường như, không có gì thay đổi. Chúng tôi đi bộ cùng nhau một quãng đường từ Mạc Đỉnh Chi, qua Nguyễn Đình Chiểu rồi về Nguyễn Bỉnh Khiêm...Tôi nhớ là không nói với nhau nhiều lắm, bởi vì, với tôi, gặp lại, là niềm vui nhưng cũng đồng nghĩa với một chút bẽ bàng, chua xót.
Năm 1972, bạn bè tan tác, kẻ ở tù, người ra đi, không lời từ biệt, nợ nhau một lời hẹn ước, trong đó, có anh. Văn Khoa ngày càng vắng. Hành lang cũ, lớp học xưa, giảng đường buồn hiu...Thật sự, chúng tôi không biết khi nào hết chiến tranh để gặp lại bạn bè, rồi thì...sinh, ly, tử, biệt, làm sao tránh khỏi..Chông chênh quá, đôi khi chân bước đi mà nước mắt tuôn trào. Văng vẳng bên tai, có tiếng ai nhỏ nhẹ: "Đừng khóc, em, nước mắt dành cho ngày gặp lại...".
Và hôm nay, trong cuộc hội ngộ này, tôi nhắc lại với anh: "Nước mắt dành cho ngày gặp lại, phải không anh?". Rồi chúng tôi chia tay, như bất cứ cuộc chia tay nào của hai người bạn.
Tưởng chừng có một hòn sỏi nào đó đã rơi xuống đáy hồ, chìm sâu, mất hút, chỉ còn những gợn sóng lăn tăn....
27-4-2012